Vận dụng tác phẩm " Sửa đổi lối làm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nâng cao văn hóa công sở tại Thái Bình

Thứ 6, 21/02/2025 | 10:37:29
121 lượt xem

Thực hiện lời dạy của Bác “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” những năm qua Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề xây dựng văn hóa đặc biệt là văn hóa công vụ. Văn hóa công vụ: “là hệ thống biểu tượng, chuẩn mực giá trị niềm tin hình thành trong nhận thức, tạo nên tầm nhìn, tác động đến hành vi và lề lối làm việc, cách sống của người thực thi công vụ, của môi trường tổ chức, có khả năng lưu truyền và ảnh hưởng tới chất lượng công cụ”.

Có thể nói văn hóa công vụ thể hiện những chuẩn mực, cách thức ứng xử của cán bộ công chức, viên chức với nhau và với người dân trong các quan hệ liên quan tới công vụ. Điều này cho thấy, đạo đức công vụ chính là phần quan trọng ảnh hưởng lớn đến văn hóa công vụ. Đây cũng là một trong những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta rất quan tâm ngay từ những năm đầu thành lập nước, được thể hiện trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), xoay quanh mối quan hệ giữa người với người mà cụ thể là mối quan hệ phương pháp, lề lối, cách thức làm việc của cán bộ, Đảng viên. 

Bác không những đã chỉ rõ, sở dĩ mối quan hệ giữa cán bộ với cán bộ, giữa cán bộ với quần chúng nhân dân chưa tốt do những căn bệnh là những sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức, tư tưởng, trong phẩm chất đạo đức, lối sống và năng lực công tác của cán bộ đảng viên, mà còn nêu rõ những biện pháp cần thiết để chữa những căn bệnh này. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng viên và cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì nước vì dân đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu”.

Người cho rắng tính xấu của một người chỉ có hại cho người đó nhưng nếu người đó là cán bộ thì tính xấu đó sẽ có hại đến Đảng, đến nhân dân. Đọc tác phẩm không khỏi giật mình vì những căn bệnh trong mỗi cán bộ được Bác cảnh báo từ năm 1947 đến nay vẫn tồn tại có trong 27 biểu hiện chính về suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa mà Hộ nghị TW4 khóa XII chỉ ra, không ít những khuyết điểm hạn chế liên quan đến tác phong, lề lối làm việc: Nói không đi đôi với làm, hứa nhiều làm ít, xa rời quần chúng, thờ ơ vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân...Những căn bệnh này, phải chăng chính là nguyên nhân của những tồn tại hạn chế, cản trở khi chúng ta xây dựng và nâng cao văn hóa công vụ. 

Ngay trong phần “Phải sửa đổi lối làm việc của Đảng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh 2 bệnh cơ bản: 

Bệnh chủ quan: là chứng bệnh nguy hiểm gây tác hại lớn. Cán bộ, đảng viên thường giải quyết công việc dựa vào ý chí chủ quan, không căn cứ vào điều kiện cụ thể và quy luật khách quan, không biết nhận rõ hoàn cảnh và điều kiện khách quan, khăng khăng làm theo ý mình nên kết quả thường nhận lấy thất bại. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh này là coi khinh lý luận làm việc theo kinh nghiệm của bản thân, giải quyết công việc vụn vặt. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như 1 mắt sáng 1 mắt mờ. 

Bệnh hẹp hòi: “Trong thì bệnh này ngăn cản Đảng thống nhất đoàn kết. Ngoài thì nó phá hoại đoàn kết toàn dân”. Biểu hiện của bệnh này là chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa cá nhân, tham danh vọng địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa...Từ trước đến nay vì bệnh này mà gây nên sự lủng củng giữa bộ phận và toàn cục, cán bộ mới và cán bộ cũ, cơ quan này và cơ quan khác. Bệnh hẹp hòi của cán bộ còn biểu hiện ở thói tự tôn tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết muốn học những ưu điểm của người khác. 

Ngoài ra Bác còn chỉ ra 8 loại bệnh cơ bản cán bộ thường mắc phải. 

Bệnh tham lam: “Những người mắc bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc do đó chỉ tự tư tự lợi. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”. 

Bệnh lười biếng: “Tự cho mính là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm biếng học hỏi làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình, việc khó thì đùn cho người khác. Gặp nguy hiểm thì tìm cách trốn tránh”. 

Bệnh kiêu ngạo: “Tự cao tự đại ham địa vị hay lên mặt. Ưa người ta tăng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”6. 

Bệnh hiếu danh: “Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình tinh thần lung lay”7.

Bệnh thiếu kỷ luật: “Đã mắc bệnh cá nhân thì tư tưởng và hành động cũng đặt cá nhân lên trên...Mình muốn thế nào thì làm thế ấy. Quên cả kỷ luật của Đảng. Phê bình thì cốt công kích những đồng chí mình không ưa. Cất nhắc thì cốt làm ơn với những người mình quen thuộc”8. 

Bệnh óc hẹp hòi: “Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình, ở ngoài Đảng thì khinh người cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức, tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ta uất ức và mình thành ra cô độc”9.

Bệnh óc địa phương: “Bệnh này tuy không xấu bằng các bệnh kia nhưng kết quả cũng rất tai hại. Miễn là cơ quan mình, bộ phận mình, địa phương mình được việc. Còn các cơ quan, bộ phận, địa phương khác ra sao cũng mặc kệ. Đó là vì cận thị, không xem xét toàn thể. Không hiểu rằng lợi ích nhỏ phải phục tùng lợi ích to ích lợi bộ phận phải phục tùng ích lợi toàn thể”10.

Bệnh óc lãnh tụ: “Từ xưa đến nay, quần chúng không bao giờ tin cậy và yêu mến những kẻ tự cao tự đại những kẻ có óc lãnh tụ, tự xưng ta đây là anh hùng, lãnh tụ. Đem so sánh với những công việc của cả loài người trong thế giới, thì những người đại anh hùng xưa nay cũng chẳng qua chỉ làm tròn một bộ phận mà thôi. Mỗi người chúng ta cố làm đầy đủ những công việc Đảng giao cho, thế là ta làm tròn nhiệm vụ và lòng tự hào đó giúp cho ta tiến bộ mãi”11. 

Từ những bệnh cơ bản trên, đã tạo nên những bệnh khác chúng liên quan rất phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: 

Thứ 1, bệnh “Hữu danh vô thực”: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi, làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ thì rỗng tuếch”12.

Thứ 2, bệnh kéo bè kéo cánh: “Từ bè phái mà đi đến chia rẽ, ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”13. 

Thứ 3, bệnh cận thị: “Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỷ mỉ...Những người như vậy chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn”14. 

Thứ 4, bệnh cá nhân: Người đã chỉ ra 10 triệu chứng và kết luận: Những bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời quần chúng “Mắc bệnh đó thì dễ đi đến chỗ để lợi ích cá nhân lên trên, để lợi ích Đảng và dân tộc xuống dưới”15.

Thứ 5, bệnh lười biếng: “Kết quả nhỏ là nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần”, “kết quả nặng là phá hoại tổ chức Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì không làm, khi làm thì trễ rồi”. “Đó là vì lười biếng, chậm chạp. Vì không hiểu rằng: Đảng cũng như thân thể một con người. Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều khắp thân thể thì người mạnh khỏe. Mạch máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó sẽ tê liệt, sinh bệnh”16.

Thứ 6, bệnh tị nạnh: “Cái gì cũng muốn “bình đẳng”, triệu chứng của nó là “Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng. Không hiểu rằng người khỏe gánh nặng, người yếu gánh nhẹ. Người làm việc nặng phải ăn nhiều, người làm việc dễ thì ăn ít”17.

Thứ 7, bệnh xu nịnh, a dua: “Trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”18. 

Sau khi chỉ ra các loại bệnh mà cán bộ thường mắc phải với mỗi loại bệnh, Bác đưa ra 1 bài thuốc riêng, vừa để cấp cứu vừa để chữa lâu dài. Tuy nhiên, Người đưa ra bài thuốc chung “đối với các khuyết điểm”: 

“ a, Phân tích rõ ràng cái gì đúng cái gì sai. 

b. Không chịu nổi ảnh hưởng của những tư tưởng sai lầm, những phần tử không tốt. Ra sức học tập và nâng cao những kiểu mẫu tốt. 

c. Không để mặc kệ. Mà ra sức tranh đấu sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát ra, không để nó có hại cho Đảng. 

d. Không làm cách máy móc. Nhưng khéo dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ.

đ. Đoàn kết Đảng bằng sự đấu tranh nội bộ. Nâng cao kỷ luật uy tín của Đảng”19. 

Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh nặng, không chết cũng lê lết quả dưa”20. Người chỉ ra: “Ta đã thấy rõ những bệnh âý thì ta tìm cách chữa. Mỗi cán bộ cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau.Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình. Đá đi lâu cũng mòn, sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bốt, ưu điểm ngày càng thêm”21. .

Học tập và làm theo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước, bằng hành động cụ thể trong những năm qua các cơ quan, đơn vị, địa phương trong toàn tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Thái Bình thi đua thực hiện văn hóa công sở”, trong đó chú trọng đẩy mạnh cải cách hành chính. Thái Bình đã duy trì và thực hiện hiệu quả việc giải quyết thủ tục hành chính theo phương án “5 tại chỗ” tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và bộ phận tiếp nhận, trả kết quả các huyện, thành phố, góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp và người dân. 

Tỉnh cũng đã triển khai áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 trong giải quyết thủ tục hành chính, góp phần đẩy nhanh quá trình xây dựng chính quyền điện tử. Các cơ quan, đơn vị, địa phương làm tốt công tác rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm tối thiểu 50% thời gian giải quyết các thủ tục hành chính theo quy định, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động; chú trọng xây dựng môi trường cơ quan, đơn vị xanh - sạch - đẹp, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, bài trí công sở theo hướng trang trọng, lịch sự, tạo thuận tiện cho người dân đến giải quyết công việc. Cùng với đó, cấp ủy các cấp trong toàn tỉnh chú trọng đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Thái Bình có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. 

Đặc biệt, chuyên đề năm 2022 “Xây dựng đội ngũ cán bộ có ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng Thái Bình phồn vinh, hạnh phúc” đã được quán triệt tới các tổ chức cơ sở đảng, cơ quan, đơn vị trong toàn tỉnh, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức nỗ lực cống hiến, tận tâm phục vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Theo lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ công nhân viên trước hết phải biết tìm ra những căn bệnh (khuyết điểm trong công vụ) mình mắc phải sau đó tự rèn luyện mình chữa trị những căn bệnh đó. Khắc phục được những bệnh trên tức là chúng ta đã thực hiện được nhiệm vụ nâng cao văn hóa công vụ. Cụ thể mỗi cán bộ công nhân viên cần thực hiện những giải pháp sau đây để dần khắc phục những căn bệnh trên nhằm nâng cao văn hóa công vụ đó là:

Trước hết về tinh thần thái độ làm việc: Cán bộ, công chức, viên chức người lao động phải trung thành với Đảng với Nhà nước; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia, tôn trọng và tận tụy phục vụ Nhân dân... Khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải ý thức rõ về chức trách, bổn phận của bản thân như phải sẵn sàng nhận và nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được phân công; không kén chọn vị trí công tác chọn việc dễ, bỏ việc khó; tâm huyết, tận tụy, gương mẫu làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao; phải có ý thức kỷ luật; sử dụng có hiệu quả thời giờ làm việc; làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị; chủ động phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ. 

Về chuẩn mực giao tiếp, ứng xử: 

Đối với nhân dân: Cán bộ, công chức, viên chức phải có thái độ lịch sự, đúng mực khi giao tiếp; tôn trọng ý kiến của nhân dân, cần nhạy bén nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; thực hiện kỷ luật phát ngôn, không nói, viết và làm những việc trái với lợi ích của Đảng và Nhà nước và nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống lại những lời nói và việc làm sai trái, xuyên tạc và phản động của các thế lực thù địch. 

Đối với đồng nghiệp: Cán bộ, công chức, viên chức phải có tinh thần hợp tác, tương trợ trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; không bè phái gây mất đoàn kết nội bộ của cơ quan, tổ chức. 

Đối với lãnh đạo cấp trên: Cán bộ, công chức, viên chức phải tuân thủ thứ bậc hành chính, phục tùng sự chỉ đạo, điều hành, phân công công việc của cấp trên, không trốn tránh, thoái thác nhiệm vụ; không nịnh bợ lấy lòng vì động cơ không trong sáng. 

Về chuẩn mực đạo đức, lối sống: Cán bộ, công chức, viên chức phải không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống. Thực hiện đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành, không có biểu hiện cơ hội sống ích kỷ, ganh gét, đố kỵ....phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội, thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. 

Về trang phục: khi thực hiện nhiệm vụ, cán bộ, công chức, viên chức phải ăn mặc gọn gàng, lịch sự. Trang phục phải phù hợp với tính chất công việc và thuần phong, mỹ tục của dân tộc.

Giảng viên Nguyễn Thùy Duyên - Trường Chính trị tỉnh Thái Bình


  • Từ khóa
Cử tri quan tâm theo dõi kỳ họp thứ chín, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XVII
Cử tri quan tâm theo dõi kỳ họp thứ chín, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XVII

Hôm nay 12/12, ngày làm việc cuối cùng của kỳ họp thứ chín, Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình khóa XVII. Kỳ họp đã thu hút sự quan tâm theo dõi của đông đảo cử tri và nhân dân trong tỉnh. Các cử tri đều...

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình: Dự thảo Quy định là bước đột phá trong công tác cán bộ
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình: Dự thảo Quy định là bước đột phá trong công tác cán bộ

Sáng 14/9, đồng chí Nguyễn Quang Dương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương dự và chủ trì hội nghị trực tuyến góp ý vào dự thảo quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của...